Web tradingMở tài khoản
Flag EngVIE

Thị trường

Tin tức thị trường

GDP(PPP) Việt Nam từng chỉ bằng 1/2 Philippines, 1/3 Thái Lan, hiện đã vượt Philippines, bao giờ vượt Thái Lan?

GDP(PPP) Việt Nam từng chỉ bằng 1/2 Philippines, 1/3 Thái Lan, hiện đã vượt Philippines, bao giờ vượt Thái Lan?

12/02/2024

Cụ thể, năm 1990, GDP(PPP) của Malaysia, Philippines, Thái Lan và Indonesia đạt lần lượt là 125,06 tỷ USD; 160 tỷ USD; 240,44 tỷ USD và 532,01 tỷ USD.

Giai đoạn 1990 - 2017, quy mô GDP(PPP) của Việt Nam thấp hơn Philippines, Thái Lan. Năm 2017, quy mô GDP(PPP) của Philippines đạt khoảng 854 tỷ USD, Thái Lan đạt khoảng 1.206 tỷ USD, còn Việt Nam đạt khoảng 851,06, tỷ USD.

Đến năm 2018, quy mô GDP(PPP) của Việt Nam đã vượt Philippines. Năm 2018, quy mô GDP(PPP) của Việt Nam đạt khoảng 936,6 tỷ USD, còn của Philippines đạt khoảng 930 tỷ USD và Thái Lan đạt khoảng 1.287 tỷ USD. Theo đó, quy mô GDP(PPP) của Việt Nam đã chính thức vượt qua Philippines sau 28 năm kể từ khi chỉ bằng 1/2 vào năm 1990.

Theo dự báo mới nhất của IMF, năm 2026, GDP(PPP) Việt Nam vượt Thái Lan. Cụ thể, năm 2026, GDP(PPP) Việt Nam được dự báo đạt khoảng 1.844 tỷ USD. Trong khi đó, GDP(PPP) của Thái Lan được dự báo đạt khoảng 1.840 tỷ USD.

Xét trong toàn bộ các nước thuộc khu vực ASEAN, quy mô GDP(PPP) của Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt trong giai đoạn 1990 - 2023.

Năm 2023, quy mô GDP các nước Indonesia, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Việt Nam, Singapore, Myanmar, Brunei, Campuchia và Lào đạt lần lượt là 4.393 tỷ USD; 1.578 tỷ USD; 1.279 tỷ USD; 1.226 tỷ USD; 1.434 tỷ USD; 753,27 tỷ USD; 277,7 tỷ USD; 32 tỷ USD; 98,32 tỷ USD và 74,21 tỷ USD.

Sau 33 năm nỗ lực phát triển, quy mô GDP(PPP) của Việt Nam đã tăng từ 77,7 tỷ USD năm 1990 lên 1.434 tỷ USD năm 2023. Trong giai đoạn 1990 - 2023, GDP(PPP) của Việt Nam có mức tăng lớn trong khu vực ASEAN (gấp 18,45 lần). Các quốc gia khác có sự cải thiện nhưng chậm hơn như: Campuchia (gấp 18,13 lần), Lào (gấp 16,5 lần), Singapore (gấp 10,38 lần), Malaysia (gấp 9,8 lần), Indonesia (gấp 8,26 lần), Philippines (gấp 8 lần), Myanmar (gấp 7,9 lần), Thái Lan (gấp 6,56 lần) và Brunei (gấp 2,21 lần).

Theo Nghị quyết của trung ương yêu cầu đến năm 2030 Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, trong đó là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại và thu nhập trung bình cao.

Theo Nghị quyết, Chính phủ đặt mục tiêu, phấn đấu đạt các mục tiêu, chỉ tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm của Quy hoạch tổng thể quốc gia đến năm 2030; trong đó, về kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021 - 2030.

Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD. Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp - xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%.

Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 50%.

Phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%; phấn đấu từ 3 - 5 đô thị ngang tầm khu vực và quốc tế. Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững và gắn với đô thị hoá; tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt trên 90%, trong đó 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.

Về phát triển kết cấu hạ tầng, hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, bao gồm các trục giao thông đường bộ Bắc - Nam (đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, một số đoạn của đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Tây, đường ven biển), các trục giao thông Đông - Tây quan trọng, phấn đấu có khoảng 5.000 km đường bộ cao tốc.

Nguồn từ: Cafef.vn